Vượt ngục là hình thức đấu tranh cao nhất, người tù có thể bỏ mạng nơi rừng thiêng, nước độc; làm mồi cho thú dữ hay bị nhấn chìm giữa mênh mông biển cả. Không phút buông xuôi, các chiến sĩ cách mạng quyết tâm thực hiện những cuộc vượt ngục táo bạo như những cánh chim khao khát tự do bay về với ánh sáng cách mạng. Xem pano
Hỏa Lò - một trong những nhà tù thực dân kiên cố nhất Đông Dương, nơi tưởng chừng như bất khả xâm phạm đã diễn ra các cuộc vượt ngục “thần kỳ” năm 1932, 1945, 1951. Các cuộc vượt ngục thể hiện bản lĩnh và trí tuệ phi thường của những chiến sĩ cộng sản tại “Địa ngục trần gian giữa lòng Hà Nội”. Xem pano
Cuối năm 1951, tổ Đảng khu xà lim tử hình quyết định tổ chức vượt ngục tập thể. Theo kế hoạch, tử tù dùng giẻ tẩm mỡ lợn đốt phần gỗ cùm để rút được chân ra. Lợi dụng giám thị Busan ham chơi bóng bàn, tử tù lấy được mẫu chìa khóa xà lim và mất 10 ngày để làm chìa khóa mới. Trong thời gian đó, Quận ủy nội thành bí mật gửi bản đồ cống ngầm, lưỡi cưa, axít... vào trại qua đường tiếp tế. Nhờ đó, anh em đã cưa đứt song sắt cống ngầm trong nửa tháng. Xem pano
19 giờ ngày 24/12/1951, 16 tử tù chia làm ba nhóm, chui xuống cống ngầm. Đêm đông, giá rét cắt thịt da, lúc đi lom khom, khi bò toài trong lòng cống sâu, hẹp, anh em vẫn cố dìu nhau chui lên mặt đường phố Quán Sứ. Cảnh sát ập đến, đoàn tù chống trả quyết liệt nhưng chỉ 5 người thoát được, 11 người bị bắt lại.
Để thực hiện kế hoạch chui cống, anh em đấu tranh đòi tăng thêm giờ ra sân và được đánh bóng bàn. Yêu cầu này được nhà tù chấp thuận. Hàng ngày, anh em bố trí hai đồng chí Kỳ và Liên thay nhau chơi bóng bàn với giám thị. Lợi dụng lúc giám thị ham chơi, hai đồng chí Hậu và Chính làm rơi biển số tù treo ngoài cửa xà lim, tạo cớ mượn chùm chìa khóa để đóng biển số lại, nhân đó, lấy mẫu chìa khóa cửa buồng giam và chìa khóa nắp cống ngầm. Hồi ký “Vượt ngục Hỏa Lò Hà Nội, đêm 24/12/1951”, Đặng Đình Kỳ, Vũ Đức Chính, Trần Minh Việt, Phạm Đình Liên, Vũ Đình Quang
Ban Chỉ huy trao đổi và phân công cụ thể: cắt song sắt cửa sổ buồng giam hai anh Minh Việt và Nguyễn Văn Hùng giao cho đồng chí Vũ Đức Chính là thợ nguội cưa. Sau đó đồng chí Chính lại tiếp tục cưa song sắt cửa từ hành lang ra sân trại. Khi cưa xong, dấu vết cưa được ngụy trang bằng đinh chốt an toàn nên khi giám thị kiểm tra dùng tay lay các chấn song cửa sổ cũng không phát hiện nổi. Để át tiếng cưa, một số đồng chí được phân công đã đem ống bơ sữa, gạch phồng mài xuống nền xi măng tạo ra tiếng động lớn, át tiếng cưa. Hồi ký “Vượt ngục Hỏa Lò Hà Nội, đêm 24/12/1951”, Đặng Đình Kỳ, Vũ Đức Chính, Trần Minh Việt, Phạm Đình Liên, Vũ Đình Quang
Vượt ngục trên đất liền đã khó, vượt ngục giữa khơi xa càng gian nan gấp bội. Để trốn thoát, phương tiện vượt biển phải chuẩn bị hết sức công phu. Từ những vật dụng thô sơ, tù nhân đã kết thành thuyền, bè, dùng quần áo làm buồm. Nhưng khi vượt biển, gặp sóng dữ, có những chiến sĩ may mắn trở về, nhưng biết bao người đã vĩnh viễn nằm lại dưới biển khơi.
Cuộc chiến đấu này Tổ quốc thật gian nan
Tôi đâu dám đứng ngoài nhìn ngắm
Một giọt nước nằm trong biển mặn
Cũng góp muối mình cho cuộc đời chung.
Xem pano
Sóng dữ Côn Đảo đã chôn vùi biết bao “thanh xuân” đang căng tràn nhiệt huyết. Năm 1932, đồng chí Lương Văn Tụy cùng đồng đội vượt ngục bằng bè tre, thùng phuy kết lại. Gặp mùa gió chướng, bè vỡ, những người tù đã hy sinh, khi đó đồng chí Lương Văn Tụy mới 18 tuổi. Năm 1933, các đồng chí Nguyễn Hới, Tống Phúc Chiểu… vượt ngục ở Mũi Tàu Bể. Mới đi được hơn trăm mét, thuyền bị sóng đánh chìm, các đồng chí đều hy sinh. Cuối năm 1934, đồng chí Ngô Gia Tự, Lê Quang Sung, Tô Chấn… vượt ngục ở Bãi Cỏ Ống. Chuyến đi có sự chuẩn bị công phu nhưng gặp biển động, các đồng chí đã mãi mãi nằm lại dưới biển sâu. Xem pano
Để có chuyến vượt ngục tại bến Đầm là sự góp sức của hàng nghìn tù nhân trong hơn nửa năm. Ban ngày, tù nhân lao động cực nhọc; đêm xuống, tất cả dồn sức chuẩn bị phương tiện vượt ngục: đào hầm, chuyển đất ra ngoài, lấy gỗ đóng thuyền; tháo quần áo khâu thành những tấm vải lớn để bọc thuyền và làm buồm. Đêm ngày 12/12/1952, 198 tù nhân khu Chuồng Cọp nhanh chóng lên 5 chiếc thuyền vượt biển. Phương tiện thô sơ, lại bị kẻ thù truy đuổi, để tránh thuyền bị chìm, ai cũng muốn nhảy xuống biển, nhường sự sống cho đồng đội. Cuộc vượt ngục không thành: 81 người hy sinh, 117 người bị bắt lại. Xem pano
Sau khi hầm đã đào xong là việc đưa hai mê thuyền xuống hầm. Đây là công đoạn quyết định sống còn của cả kế hoạch vượt đảo. Đêm ấy, anh em phân công rõ từng nhóm bộ phận rút chân rường. Bộ phận dùng dây mây gò tấm mê theo kiểu lòng máng và từ từ hạ xuống hầm nhẹ nhàng đều tay. Khi đưa xuống xong lại ken gỗ kín mặt hầm, rải cỏ, rải đất cát và sỏi trở lại bình thường. Hồi ký “Chúng tôi vượt ngục”, Tô Lương - tù chính trị tham gia vượt ngục bến Đầm năm 1952
Cuộc vượt ngục không thành công, 81 chiến sĩ hy sinh nơi biển cả (75 trôi dạt vào bờ, 6 người mất tích giữa biển khơi) đã được những người dân ở Côn Đảo âm thầm chôn cất ở bãi cát Cỏ Ống và lập đền thờ… Hiện nay, vẫn còn 73 hài cốt còn nằm lại ở Cỏ Ống, Côn Đảo. Đó là sự thiệt thòi của những liệt sĩ và thân nhân các liệt sĩ vì những gia đình này không đủ điều kiện để đưa thi hài về quê hương do nhiều lý do khác nhau. Hồi ký “Côn Đảo anh hùng, biển Đông dậy sóng”, Đoàn Duy Thành Xem pano
Tại các nhà tù địa phương như: Bắc Ninh, Chợ Chu (Thái Nguyên), Nhà đày Buôn Ma Thuột, Nhà lao Thiếu nhi Đà Lạt… cũng được chính quyền thực dân, đế quốc xây dựng kiên cố, hệ thống canh gác cẩn mật, đội ngũ giám thị, mật thám chuyên nghiệp. Nhưng tất cả đều không ngăn được những trái tim dũng cảm, luôn khát khao tìm về tự do, về với cách mạng, với nhân dân. Xem pano
Nhà Đày Buôn Ma Thuột nằm trên cao nguyên, rừng núi điệp trùng, hệ thống tường vây cao vút, cắm đầy mảnh chai sắc rợn. Để trốn thoát, tù nhân buộc phải vượt qua con đường duy nhất là đồn Khánh Dương, nơi lính Pháp canh gác nghiêm ngặt ngày đêm. Thực dân Pháp còn mua chuộc dân bản để họ tố cáo, bắt tù nhân trốn trại, đổi lấy muối, do đó rất ít cuộc vượt ngục thành công. Mặc dù vậy, cuối năm 1941, với sự mưu trí, biết nắm bắt thời cơ, đồng chí Nguyễn Chí Thanh, Lê Tất Đắc, Phan Văn Dứa nhân cơ hội được vào rừng lấy củi, đã tổ chức vượt ngục thành công. Xem pano
Đến Buôn Ma Thuột, ngoài Nguyễn Vịnh ra, còn có Lê Tất Đắc và Phan Văn Dứa. Ba anh bàn bạc, nhất trí với nhau về việc tổ chức vượt ngục. Mỗi người chuẩn bị một ít muối, vài bao diêm và một ít thuốc chữa bệnh, đề phòng đau ốm lúc đi đường. Một hôm, khi Đờ-riu (lính áp giải các anh vào rừng lấy củi) yêu cầu được “tẩm quất”, ba anh bèn đè ra, trói lại. Rồi các anh vượt núi rừng Tây Nguyên, nhằm hướng mặt trời, tìm đường về xuôi. Trích: Những ký ức về nhà đày Buôn Ma Thuột, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Dak Lak, 2000, tr.145
Năm 1971, chính quyền Mỹ - ngụy xây dựng một nhà tù đặc biệt, có một không hai trên thế giới - Nhà lao thiếu nhi Đà Lạt (Trung tâm giáo huấn thiếu nhi Đà Lạt), nơi giam 600 tù nhân thiếu nhi (từ 12 đến 17 tuổi), nhằm tách khỏi sự dìu dắt của thế hệ cha anh. Nhưng, chế độ giam cầm hà khắc, biệt lập không khuất phục được tinh thần đấu tranh của các chiến sĩ cách mạng nhỏ tuổi. Ngày 07/5/1973, mười ba chú bé dũng cảm đã đục trần, dỡ ngói, leo lên nóc nhà, xé quần áo, kết thành dây, buộc vào chân, tay để vượt qua lưới điện cao thế và lớp kẽm gai dày đặc. Mười ba lượt di chuyển kết thúc là lúc trời bắt đầu sáng. Xem pano
Lúc đó, thấy mấy đứa nhỏ lấm lem thụt thò ngoài cửa là tui biết tù thiếu nhi vượt ngục. Sau khi lấy quần áo trong nhà cho mấy đứa mặc, tui nấu nồi cơm thật bự, thế mà tụi nó ăn vèo một cái hết sạch. 3 giờ sáng dậy nấu tiếp nồi nữa mà tụi nhỏ ăn cũng hết trơn. Lời bà Phan Thị Tịch (Năm Tịch), cơ sở cách mạng che chở cho đoàn tù thiếu nhi vượt ngục ngày 07/5/1973 Xem pano
Những chiến công vang dội của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX có sự góp sức của biết bao thế hệ tù chính trị từng bị giam trong các “địa ngục trần gian”. Bằng niềm tin bất diệt, những người con quả cảm sau khi thoát ngục, tiếp tục cống hiến sức lực, trí tuệ cho công cuộc đấu tranh giành độc lập, bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước. Xem pano
Tôi hân hạnh yêu cầu Ngài tín nhiệm công dân Nguyễn Lương Bằng do tôi cử làm Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Liên bang Cộng hòa xã hội Xô Viết… Tôi tin tưởng rằng việc cử Đại sứ Việt Nam sang Liên Xô sẽ củng cố và thắt chặt thêm tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước chúng ta. Trích: Quốc thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi ông N.M. Sverơních, Chủ tịch Chủ tịch Đoàn Xô Viết tối cao Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô), ngày 10/3/1952 Xem pano
Khi đồng chí làm Phó Chủ tịch rồi Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng, sau đó làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, trong nhiều lần tiếp xúc với khách quốc tế và các đoàn ngoại giao, đồng chí đã chinh phục được lòng người qua những lời nói giản dị và đầy ý nghĩa. Trích: Trường đại học của đồng chí Đỗ Mười là thực tế sống và chiến đấu, GS. Vũ Khiêu: Những câu chuyện về đồng chí Đỗ Mười, Nxb Dân Trí, Hà Nội, 2011, tr.257 Xem pano
Cách mạng tháng Tám thành công, đồng chí Trân được Đảng và Chính phủ cử làm Phó chủ tịch Ủy ban hành chính Bắc Bộ, Chủ tịch là ông Nguyễn Xiển - một trí thức nổi tiếng và nhiều trí thức khác trong Ủy ban. Đồng chí Trân vẫn khéo léo đưa được đường lối, chính sách, chủ trương của Đảng thành công. Trích: Một tập hồi ký đáng đọc và suy ngẫm, Mai Vy - cán bộ lão thành cách mạng: Hồi ký Cách mạng và cuộc đời tôi, Nxb Hà Nội, 2011, tr.15 Xem pano
Chỉ trong mấy năm phụ trách công tác hậu cần, anh (Trần Đăng Ninh) đã xây dựng được tổ chức hậu cần của chiến tranh nhân dân Việt Nam, gồm hậu cần quân đội và hậu cần nhân dân, đảm bảo cho các chiến dịch lớn của chủ lực cũng như hoạt động rộng khắp của chiến tranh du kích trên các chiến trường. Trích: Một nhà hoạt động thực tiễn có năng lực và giàu kinh nghiệm, Võ Nguyên Giáp: Đồng chí Trần Đăng Ninh với cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2014, tr.19 Xem pano
Từ Nhà hát Lớn Hà Nội, chúng tôi dẫn đầu đoàn quần chúng ào ạt tiến về Phủ Khâm sai... Tôi, anh Trần Tử Bình (Thường trực Xứ ủy phụ trách 10 tỉnh Bắc Bộ), anh Nguyễn Khang và nhiều quần chúng vượt qua cổng sắt, tràn lên đại sảnh và tiến vào Văn phòng Phủ Khâm sai. Nhân danh Ủy ban Quân sự cách mạng, anh Trần Tử Bình tiến thẳng đến nơi làm việc của Nguyễn Xuân Chữ, người cầm đầu "Ủy ban Chính trị" bù nhìn, ra lệnh phải đầu hàng... Lời đồng chí Lê Trọng Nghĩa, Ủy viên Ủy ban Khởi nghĩa Hà Nội năm 1945 Trích: Phóng sự - Những nhân chứng lịch sử trong ngày “Hà Nội vùng đứng lên”, Công an nhân dân điện tử, ngày 20/2/2015 Xem pano
Trong những ngày đầu của cuộc Cách mạng tháng 8/1945 tại Hà Nội, đồng chí Lê Trọng Nghĩa được cử “một mình vào Dinh Khâm sai” gặp Khâm sai Bắc bộ Phan Kế Toại để nắm bắt tư tưởng và vận động ủng hộ Mặt trận Việt Minh. Hồ sơ nhân chứng lịch sử Lê Trọng Nghĩa, Ban Quản lý Di tích Nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội, 2013 Xem pano
Nữ du kích Hoàng Ngân là biểu tượng sinh động trong muôn vàn tấm gương tiêu biểu cho truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của phụ nữ Việt Nam. Lời đồng chí Đỗ Mười, nguyên Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Xem pano
Đội nữ du kích Hoàng Ngân tại các địa phương trong kháng chiến chống Pháp
Ở cương vị Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, anh Thanh đã có công lớn trong việc xây dựng quân đội về chính trị tư tưởng, xây dựng hệ thống tổ chức Đảng, tổ chức công tác chính trị, xây dựng đội ngũ cán bộ, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội…, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang nhân dân ta. Lời Đại tướng Võ Nguyên Giáp Xem pano
Anh Văn Tiến Dũng được Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương phân công trực tiếp chỉ huy trận chiến Buôn Ma Thuột mở màn thắng lợi, thúc đẩy toàn bộ chiến trường. Trích: Văn Tiến Dũng - Một chiến sỹ cộng sản trung kiên, một vị tướng tài ba của quân đội, Chu Huy Mân: Nhớ mãi Đại tướng Văn Tiến Dũng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.55 Xem pano
Ngay từ nửa đêm 15/8/1945, tôi được trao nhiệm vụ trở về ngay Tuyên Quang, phụ trách công cuộc khởi nghĩa của mấy tỉnh phía tây, một dải chạy dọc theo hai triền sông Lô, sông Thao: Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái, Hà Giang… Tại Tuyên Quang, Phú Thọ, Yên Bái lúc bấy giờ đã có những chiến khu, căn cứ vững mạnh do các đồng chí Đảng ta vượt ngục Nghĩa Lộ tổ chức, lãnh đạo. Trích: Thượng tướng Song Hào - Hồi ký và tác phẩm, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.75 Xem pano
Sau khi phá ngục Trại giam Phú Bài, tôi tham gia Ban Chấp hành lâm thời tỉnh Quảng Nam, phụ trách huyện Tiên Phước. Ngày 18/8/1945, tôi cùng nhân dân tổ chức giành chính quyền thành công tại Quảng Nam. Lời Thiếu tướng Huỳnh Đắc Hương, ngày 13/08/2019 Xem pano
Các nhân chứng lịch sử gặp mặt tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò, ôn lại kỷ niệm vượt ngục bằng đường cống ngầm tháng 3/1945 Xem pano
Các nhân chứng lịch sử gặp mặt tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò, ôn lại kỷ niệm vượt ngục bằng đường cống ngầm đêm 24/12/1951 Xem pano
Các nhân chứng lịch sử gặp mặt, ôn lại kỷ niệm vượt ngục tại Bến Đầm, Nhà tù Côn Đảo, ngày 12/12/1952
Họp mặt kỷ niệm 40 năm “Chiến thắng trở về” và “Lễ tưởng niệm các liệt sĩ đã hy sinh tại Phú Quốc”, tại Khu Di tích lịch sử Trại giam Tù binh Phú Quốc, ngày 15/3/2018
Đại diện Ban liên lạc Trại giam Tù binh Phú Quốc tại Hà Nội họp mặt tại Di tích Nhà tù Hỏa Lò, ngày 16/10/2019